Công nghệ sản xuất bánh mỳ
1 Tìm hiểu về nguyên liệu1.1 Bột mìNguồn gốc:
Bột mì được sản xuất bằng cách nghiền hạt lúa mì. Lúa mì có nguồn gốc từ Tây Nam Á . Việc trồng trọt lúa mì đã bắt đầu lan rộng ra ngoài khu vực Tây Nam Á trong thời đại đồ đá mới. Vào khoảng năm 3000 TCN, lúa mì đã xuất hiện tại Ethiopia, Ấn Độ, Ireland và Tây Ban Nha. Khoảng 1 thiên niên kỷ sau nó tới Trung Quốc. Khoảng năm 1000 TCN việc trồng trọt nông nghiệp với sử dụng sức ngựa, trâu, bò cày bừa đã làm gia tăng sản lượng lúa mì, giống như việc sử dụng các máy gieo hạt thay thế cho việc gieo hạt bằng cách rải hạt trong thế kỷ 18. Sản lượng lúa mì tiếp tục tăng lên, do các vùng đất mới được đưa vào khai thác, cũng như do kỹ thuật canh tác của nghề nông tiếp tục được cải tiến với việc sử dụng các loại phân bón, máy gặt, máy đập lúa (máy gặt đập), các loại máy cày đất, máy xới đất, máy trồng câydùng sức kéo của máy kéo, công tác thủy lợi và phòng trừ sâu bệnh dịch hại hoàn thiện hơn cũng như việc tạo ra các giống mới tốt hơn. Với tỷ lệ gia tăng dân số trong khu vực sử dụng lúa mì như là loại lương thực chính đang suy giảm, trong khi năng suất vẫn tiếp tục tăng, nên diện tích gieo trồng lúa mì hiện tại đã bắt đầu xu hướng giảm và nó là lần đầu tiên diễn ra xu hướng này trong lịch sử loài người hiện đại. Vào năm 2007, sản lượng lúa mì đã giảm tới mức thấp nhất kể từ năm 1981, và năm 2006 là lần đầu tiên lượng tiêu thụ lúa mì trên toàn thế giới nhiều hơn là sản lượng – một khoảng trống sẽ được tiếp tục dãn rộng do nhu cầu tiêu dùng lúa mì hiện nay đã tăng nhanh hơn mức tăng của sản xuất.
Phân loại:
Bột mì có hai loại: Bột mì trắng và bột mì đen. Bột mì trắng được sản xuất từ hạt lúa mì trắng, bột mì đen được sản xuất từ lúa mì đen. Do đó có bánh mì trắng và bánh mì đen. Bánh mì trắng có độ xốp cao hơn, độ acid nhỏ hơn và độ ẩm của bánh cũng nhỏ hơn so với bánh mì đen. Ruột bánh mì trắng có màu trắng ngà, vỏ có màu vàng đẹp, còn bánh mì đen thì có màu nâu tối. Ở nước ta chủ yếu sản xuất bánh mì trắng. Lúa mì trắng có hai loại: loại cứng và loại miềm, loại cứng có chất lượng cao hơn.
Yêu cầu chọn nguyên liệu
Chọn bột mì có hàm lượng protein khoảng 10.5 -11 %
Các chỉ tiêu kiểm tra
Chất lượng bột mì được đánh giá theo tiêu chuẩn nhà nước. Các chỉ số trong tiêu chuẩn chất lượng bột mì được đặc trưng bằng tình trạng vệ sinh và hạng của bột, các chỉ số về tính chất nướng bánh không được tiêu chuẩn hóa trừ hàm lượng gluten ướt trong bột mì. Các chỉ số chất lượng ấy bao gồm vị, mùi, độ nhiễm trùng, hàm lượng các tạp chất sắt và độ ẩm.
Bột không có mùi lạ, vị lạ, không bị nhiễm trùng. Hàm lượng chất sắt không quá 3mg/1kg bột. Độ ẩm của bột phải nhỏ hơn 13 – 13.5%.
Các hạng bột khác nhau về độ tro, độ trắng, độ mịn, độ acid và hàm lượng gluten ướt (độ trắng và độ acid không phụ thuộc vào chỉ số tiêu chuẩn chất lượng bột).
Độ tro là chỉ số cơ bản để xác định hạng của bột, thêm vào đó người ta còn dùng độ trắng và độ mịn nữa. Còn độ axit và hàm lượng gluten tươi không thể đặc trung cho hạng của bột vì các chỉ số này luôn luôn biến động
Các chỉ tiêu đánh gái chất lượng của bột
Loại bột
Các chi số Bột mì tỷ lệ thu bột 75% Bột mì tỷ lệ thu bột 80%
Độ tro không quá, % 0.8 1
Hàm lượng gluten ướt, % 27 28
tỷ lệ trên sàng 29 mắt/cm, % - 0.5
tỷ lệ trên sàng 32 mắt/cm, % 0.5 Không quá 3
tỷ lệ trên sàng 38 mắt/cm, % Không quá 3 -
Tạp chất cát sạn không quá, % 0.03 0.03
• Độ tro:
Hạng của bột được xác định bằng hàm lượng cám (vỏ quả, vỏ hạt). Xác định trực tiếp hàm lượng cám có khó khăn, do đó hạng của bột được thể hiện gián tiếp qua độ tro, xác định độ tro tuơng đối đơn giản hơn. Đọ tro của nội nhũ lúa mì vào khoảng từ 0.4 đến 0.45%, độ tro của cám khoảng 7 – 8.5%. Do đó bột mì có hạng cao chứa ít tro hơn bột mì các hạng thấp. Nhiều nước trên thế giới đã lấy độ tro làm chỉ số cơ bản để xác định hạng của bột mì.
• Độ mịn:
Độ mịn của bột đặc trưng cho mức độ nghiền. Bột thuộc các hạng cao thì mịn hơn, nghĩa là gồm từ các phần tử nhỏ hơn. Độ mịn của bột ảnh hưởng đến giá trị thực phẩm và tính chất nướng bánh của bột. Trong quá trình tạo thành bột nhào, bột có kích thước lớn sẽ chậm trương nở, chậm lên men và quá trình keo hóa không thể xảy ra với tốc độ nhanh. Bột càng mịn thì càng có điều kiện tốt cho enzym tác dụng, và càng dể dàng hình thành bột nhào.
• Độ trắng:
Các lớp vỏ quả hạt thường chứa nhiều sắc tố, nội nhũ chứa nhiều sắc tố hơn. Bột càng trắng chứng tỏ càng chứa lẫn ít vỏ, bản thân nội nhũ có chứa sắc tố carotinoit nên bột thường có màu trắng ngà. Độ trắng của bột không phải lúc nào cũng quan hệ chặt chẽ với độ tro, đó chính là các lớp alơrông của hạt tuy không có màu nhưng lại có độ tro cao, còn vỏ quả,vỏ hạt thì có màu nhưng hàm lượng tro lại tương đối ít hơn.
• Số lượng và chất lượng của gluten:
Gluten của bột hạng cao thường có màu sáng hơn và độ hút nước lớn hơn. Bột có hàm lượng gluten cao thường có tính chất nướng bánh cao. Nhưng tính chất nướng bánh cồn phụ thuộc nhiều vào chất lượng gluten nữa.
• Độ axit của bột:
Hạt và bột luôn có tính axit đó là do trong bột có các muối photphat acid, các acid béo tự do, và các acid hữu cơ khác (lactic, acetic…). Các acid đó được tạo thành do quá trình thủy phân bằng men trong thời gian bảo quản bột hoặc hạt. Trong quá trình sản xuất bánh mì, người ta xác định độ acid chung của bột, bán thành phẩm và thành phẩm.Độ axit là một lượng các axit có các tính chất acid và được biểu diễn bằng độ Nâyman(0N). Độ acid của bột mì dùng trong công nghiệp sản xuất bánh mì được qui định trong khoảng 3 – 50N, nếu biểu diễn bằng pH thì vào khoảng 5.8 – 6.3.
Thành phần hóa học của bột mì
• Protit:
Hàm lượng protit trong các loại bột mì khác nhau thì không giống nhau.Hàm lượng protit tăng dần từ bột hạng cao đến bột hạng thấp, nhưng về mặt dinh dưỡng thì protit trong bột hạng cao giá trị hơn. Protit trong bột mì cũng gồm có 4 loại:
- Anbumin (hòa tan trong nước).
- Globumin (hòa tan trong dung dịch muối trung tính).
- Prolamin (hòa tan trong dung dịch rượu rượu 60 – 80%), còn có tên gọi là glutenin.
- Glutelin (hòa tan trong dung dịch kiềm yếu 0,2%), còn có tên gọi là glutenin.
Trong 4 loại protit nói trên, hàm lượng anbumin và globulin chiếm khoảng 20%, còn 80% là prolamin và glutelin. Tỷ lệ gliadin và glutenin trong bột mì tương đương nhau. Khi đem bột mì nhào với nước và để yên một thời gian sẽ tạo thành gluten. Rữa bột nhào cho tinh bột trôi đi, còn lại một khối dẻo đó là gluten. Gluten thu được sau khi rửa của bột nhào gọi là gluten ướt. Trong gluten ướt có chứa khoảng 60 – 70% nước.
• Gluxit của bột mì:
Gluxit trong bột mì gồm có tinh bột, dextrin, xenluloza, hemixenlulza, gluxit keo, các loại đường.
Tinh bột là gluxit quan trọng nhất của bột, trong bột có các hạng cao có chứa đến 80% tinh bột. Tinh bột của các loại bột khác nhau thì không giống nhau về hình dáng, kích thước, khả năng trương nở và hồ hóa. Độ lớn và độ nguyên của hạt tinh bột có ảnh hưởng đến tính rắn chắc, Khả năng hút nước và hàm lượng đường trong bột nhào. Hạt tinh bột nhỏ và hạt tinh bột lớn sẽ bị đường hóa nhanh hơn trong quá trình sản xuất bánh mì. Trong các hạt tinh bột, ngoài tinh bột ra còn có một lượng rất nhỏ acid photphoric, acid silisic, acid béo và các chất khác.
Trong quá trình chuẩn bị bột nhào xảy ra sự thủy phân tinh bột bằng men, còn trong khi nướng thì xảy ra sự thủy phân bằng acid. Sự thủy phân men được tiến mantoza. Mantoza tạo thành là dextrin hành theo sơ đồ: Tinh bột nguyên liệu càn thiết cho quá trình lên men bột nhào.
Dextrin (C6H12O5)n là sản phẩm tạo ra đầu tiên trong quá trình thủy phân tinh bột. Đó là những chất keo và tạo thành với nước một dung dịch dính. Khối lượng phân tử và tính chất của dextrin phụ thuộc vào mức độ thủy phân của tinh bột. Người ta phân ra các nhóm dextrin sau đây:
- Anilodextrin là hợp chất có cấu tạo gần giống tinh bột, khi tác dụng với iot cho màu tím.
- Eritrodextrin là hợp chất có khối lượng phân tử nhỏ hơn khi tác dụng với iot cho màu đỏ.
- Acrodextrin và mantodextrin là những dextrin đơn giản nhất, khi tác dụng với iot không cho màu đặt trưng.
Dextrin ít liên kết với nước. Do đó khi nhào bột có hàm lượng cao các dextrin thì ruột bánh mì chặt và kém đàn hồi.
Xenluloza (C6H12O5)n cũng có công thức chung gần giống như tinh bột nhưng khác nhau về cấu trúc phân tử và các tính chất lý hóa học. Phân tử của xenluloza gồm có trên 1500 gốc glucoza. Xenluloza không tan trong nước lạnh và nước nóng. Thủy phân xenluloza bằng axit khó hơn thủy phân tinh bột. Cơ thể người không thể tiêu hóa được xenluloza và chính hàm lượng xenluloza làm giảm giá trị thực phẩm của bột. Trong bột hạng cao chứa khoảng 0.1 – 0.15% xenluloza, còn trong bột nghiền lẫn chứa 2.3%.
Hemixenluloza là polyonscaxit cấu tạo từ các gốc pentozan (C5H8O4)n¬ và hecxosan (C6H10O5)n. Hemixenluloza không hòa tan trong nước, nhưng hòa tan tong kiềm.Nó dể thủy phân hơn xenluloza. Hàm lượng hemixenluloza phụ thuộc vào hạng bột, thường khoảng 2 – 8%. Cơ thể không tiêu hóa được hemixenluloza.
Gluxit keo là các pentozan hòa tan, chủ yếu có chứa trong nội nhũ của hạt. trong bột mì hàm lượng gluxit keo vào khoảng 1.2 %. Gluxit keo có tính háo nước rất cao và đóng vai trò quan trọng trong sản xuất bánh mì, đặc biệt là bánh mì đen. Khi trương nở trong nước các gluxit keo cho ta những dịch keo. Dịch keo này có ảnh hưởng rõ rệt đến các tính chất lý học của bột nhào.
Đường trong bột có chứa một hàm lượng không lớn lắm. trong bột có chứa khoảng 0.1 – 0.25% glucoza và fructoza, và gần 0.1 – 0.5 % mantoza. Trong bột mì sản xuất từ hạt nảy mầm thì hàm lượng mantoza tăng lên rất rõ rệt. Đường chủ yếu nằm trong phôi hạt. Hàm lượng saccaroza trong bột vào khoảng 0.2 – 0.6%. Hàm lượng chung của các loại đường phụ thuộc vào hạng bột và chất lượng hạt. Đường trong bột có ảnh hưởng đến quá trình sản xuất bánh, đường được sinh ra trong thời gian 1.5 – 2 giờ đầu tiên của quá trình lên men. Hàm lượng đường chung trong bột mì trắng vào khoảng 1.8 – 4.0% trong bột mì đen khoảng 4.0 – 6.5% .
• Các lipit:
Là những chất hữu cơ ghét nước có cấu trúc khác nhau, không hòa tan trong nước nhưng có khả năng hòa tan trong các dung môi hữu cơ. Trong số các lipit của bột mì, ngoài các chất béo trung tính còn phải kể tới các photpharit, sterin, sắc tố và các vitamin hòa tan trong chất béo. Trong bột các lipit có trạng thái tự do và trạng thái kết hợp với protit và gluxit. Những hợp chất này ảnh hưởng đến tính chất của gluten, chúng làm cho gluten đàn hồi hơn. Hàm lượng chung của các lipit trong bột mì khoảng 2 – 3%, lipit của bột gồm khoảng 75% chất béo.
• Các enzym: thủy phân protit và tinh bột
Men thủy phân protit dược chia ra làm hai: proteinaza và polipeptidaza. Trong quá trình sản xuất bánh mì, proteinnaza có ý nghĩa quan trọng, bởi và protenaza thủy phân các protit tự nhiên, mà chính các protit tự nhiên mới có những tính chất vật lý có giá trị đối với sản xuất bánh mì. Trong tinh bột luôn luôn có proteinaza. Proteinaza làm mất cấu trúc bậc 3 của phân tử protit, làm cho gluten bị vụn nát dẫn đến tính chất vật lý của gluten xấu đi và làm giảm khả năng liên kết với nước. Do đó ảnh hưởng xấu đến tính chất bột nhào. Nhiệt đọ thích hợp cho proteinaza là 45 – 550C, môi trường thích hợp là pH = 4.5 – 5.6. Các chất khử có tác dụng tăng cường hoạt động của proteinaza còn các chất oxy hóa có tác dụng kiềm hãm hoạt động của proteinaza. Muối ăn cũng có tác dụng kìm hãm hoạt động của proteinaza. Khống chế hoạt động thủy phân protit của bột bằng cách sử dụng độ nhạy của prteinaza với nhiệt độ, pH và sự có mặt của các chất hoạt hóa và chất kiềm hãm.
Enzym thủy phân tinh bột gồm và -amilaza. Trong điều kiện thích hợp có thể thủy phân đến 95% tinh bột. Ý nghĩa trong sản xuất bánh mì của 2 loại enzym này rất khác nhau. Tác dụng đường hóa của – amilaza xúc tiến sự lên men bột nhào và làm chất lượng sản phẩm tốt hơn, vì đường trong bột mì không đủ đẻ làm ra bột mì với chất lượng bình thường. Hàm lượng cao của amilaza trong bột sẽ ảnh hưởng xấu đến trạng thái bột mì. Sự dextrin hóa của tinh bột trong thời gian nướng bánh của - amilaza làm giảm khả năng giữ nước của ruột bánh. Bột mì sản xuất từ hạt đã nảy mầm có hàm lượng -amilaza cao, do đó bột lấy từ hạt nảy mầm có chất lượng thấp đối với công nghệ sản xuất bánh mì. Ngoài ra còn có các enzym như lipaza, lipoxadaza, triozinaza. Lipaza có tác dụng làm tăng độ acid của bột mì. Lypoxydaza có tác dụng oxy hóa tizozin tạo thành các chất có màu tối, chính quá trình này làm cho bột nhào và ruột bánh có màu sẫm.
1.2 Các nguyên liệu khác.
Nước
Nước dùng để nhào bột cần đảm bảo chỉ tiêu về độ sạch theo tiêu chuẩn, độ cứng của nước ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng bánh, các muối có trong nước cứng có tác dụng làm cho gluten chặt lại(liên kết chặt chẽ không bị gãy nát) gây ra vị không ngon. Độ cứng của nước yêu cầu không quá 7mg đương lượng/ lít.
Muối ăn
Lượng muối cần cung cấp cho sản xuất bánh mì là 1 – 1.5% có tác dụng làm cho gluten chặt lại vị của bánh ngon hơn. Muối ăn làm kiềm hãm sự hoạt động của nấm men nếu nhiều nên khi lên men cần hòa tan lượng men riêng, muối riêng. Muối sử dụng trong quá trình này cần đảm bảo thực phẩm thực phẩm về độ sạch. Muối còn có tác dụng tạo vị.
Đường
Cần cho quá trình lên men, phải bổ xung tùy từng loại bánh. Làm cho bột nhào bị cháy và giảm lượng nước liên kết trong bột nhào.
Nếu cho một lượng đường nhỏ vào thì quá trình lên men sẽ tăng nhanh, nếu cho quá nhiều thì trong quá trình lên men và ủ bột nhào nấm men sẽ bị ức chế.
Đường còn có tác dụng làm vỏ bánh có màu vàng đẹp.
Các chất phụ gia khác
Tăng cường chất lượng bánh mì bằng cách cho các loại phụ gia khác, ví dụ: mật ong, trứng, sữa và các sản phẩm từ sữa, các chất thơm, chất màu thực phẩm, tăng chất lượng bánh mỳ. Chú ý người ta chỉ cho phụ gia trong trường hợp sản xuất bánh mì hạng cao.
Các hóa chất làm nở bánh. Các hóa chất làm nở bột nhào được gọi chung là các hóa chất làm nở bánh. Người ta thường sử dụng hai loại là amonicacbonat và natri bicacbonat:
CO2 + 2NH3 + H2O(NH4)¬2CO3
Na2CO3 + CO2 + H2O2NaHCO3
Thực tế loại 2 sử dụng nhiều hơn vì không tạo mùi NH3 và thường sử dụng hai loại này với tỷ lệ 0.1 – 0.2% NaHCO3 và 0.2- 0.4% (NH4)¬2CO3.
J Lưu ý: Hạn chế sử dụng hóa chất làm nở bánh vì gây ra mùi khó chịu.
2. Tìm hiểu về công nghệ
2.1 Công nghệ sản xuất trên thế giới
Nguyên liệu=> nhào bột đầu (<= nước men)=> lên men bột đầu (3-4h)=> (bột, nước, muối=>) nhào bột hạt => lên men bột nhào (1-1.3 h) đảo 1-2 lần=> chia bột nhào- vê=> ủ sơ bộ (5-7 phút)=> lăn vê tạo hình=> lên men kết thúc (25-60 phút)=> khía bánh=> nướng=> làm nguội=> phân loại=> bảo quản.
2.2 Công nghệ sản xuất ở việt nam
Nguyên liệu => nhào bột khô=> nhào bột ướt (phương pháp nhào bột đầu) => lên men khối bột nhào=> lăn vê tạo hình=> lên men => khía bánh=> nướng=> làm nguội và bảo quản.
2.3 Công nghệ sản xuất tại phòng thí nghiệm
Nguyên liệu=> nhào bột (khô)=> nhào ướt=> tạo hình=> lên men (ủ)=> khía bánh=> nướng=> cảm quan.
2.4 So sánh các quy trình công nghệ
Giữa quy trình sản xuất thế giới và việt nam:
Như chúng ta thấy quy trình tương đối giống nhau, nếu khác nhau thì chỉ khác ở thành phần nguyên liệu chính và phụ, thiết bị và quy mô sản xuất lớn và khép kín (đầu tư về chiều rộng cũng như chiều sâu).
Ở Việt Nam công nghệ sản xuất bánh mỳ phần lớn sản xuất theo quy mô nhỏ (thường là quy mô gia đình) có trang bị các thiết bị hiện đại (thiết bị nướng, ủ men, nhào bột, tạo hình và chia bánh..), nhưng chưa hoàn toàn tự động hóa và sản xuất theo quy mô khép kín.
Giữa quy mô công nghiệp và phương pháp trong phòng thí nghiệm:
Phần lớn là thủ công, và thiết bị bán tự động hóa. Sản xuất với số lượng nhỏ, thành phần nguyên liệu và công thức nghiêng về phía thử nghiệm. Chú trọng đến chất lượng và đặc tính sản phẩm hơn là giá thành sản phẩm.
Khi tiến hành trong phòng thí nghiệm chúng ta không tiến hành lên men sau quá trình nhào bột mà tiến hành tạo hình ngay sau đó. Quá trình lên men được tiến hành sau khi đã tạo hình. Và men thường sử dụng trong phòng thí nghiệm là men khô. Còn men sử dụng ở quy mô công nghiệp là men dạng paste hoặc dạng lỏng => hiệu suất lên men và sản xuất cao hơn. Kích thước sản phẩm thường không theo chuẩn mực định sẵn (quy định sản phẩm) mà mang tính ước lượng tương đương=> nhiệt độ thường thấp hơn so với sản xuất trong quy mô công nghiệp.
Và do một số khâu không có nhiều ý nghĩa thường được bỏ qua để hạn chế phức tạp.
2.5 Thuyết minh quy trình:
Nguyên liệu: như đã thuyết minh ở phía trên.
Nhào bột khô:
Bột nhập vào nhà máy sản xuất bánh mỳ có thể khác nhau rất xa về chất lượng. Do đó trước khi đưa bột vào sản xuất phải tiến hành hỗn hợp các loại bột khác nhau để thu được một loại bột có thành phần và tính chất xác định đảm bảo chất lượng đồng nhất của bánh thành phẩm.
Việc trộn bột thường được tiến hành song song với khâu làm bột. Quyết định trộn bột nào với bột nào là do phòng kỹ thuật nhà máy chịu trách nhiệm dựa vào kết quả của mẫu bánh thí nghiệm (mẫu nướng thử).
Nhào bột ướt:
Nhào bột là một khâu rất quan trọng có ảnh hưởng rõ rệt đến khâu tiếp theo của quá trình kỹ thuật và chất lượng của bánh mỳ. Khối bột nhào thu được có cấu trúc đồng nhất gồm bột nước, men, muối và các thành phần khác. Khối đồng nhất này có cấu trúc và các tính chất vật lý xác định.
Các hợp chất protit đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành mạng lưới khung gluten. Protit bột nhào trương lên và tăng thể tích nhiều lần. Sự trương của hợp chất protit tạo thành bộ khung có cấu tạo xốp, do đó bột nhào có tính đàn hồi và dẻo.
Trong khối bột nhào, ngoài pha lỏng cấu tạo từ nước tự do, protit hòa tan, đường và các chất khác, còn có pha khí hình thành do sự tích lũy các bọt khí trong khi nhào và các túi khí CO2 do lên men. Như vậy có thể nói bột nhào là hệ phân tán gồm 3 pha: rắn, lỏng, khí.
Dưới tác dụng cơ học của thiết bị nhào, tạo điều kiện cho protit trương nở và tạo thành bộ khung gluten, tăng cường tính chất vật lý của khối bột nhào, nhiệt độ khối bột nhào tăng lên.
J Lưu ý: sự thâm nhập của oxy trong quá trình nhào bột, cường độ và tốc độ nhào của thiết bị nhào, thời gian nhào bột.
v Phương pháp nhào bột đầu:
Gồm hai giai đoạn:
- Chuẩn bị bột đầu
- Chuẩn bị bột nhào (bạt)
• Chuẩn bị bột đầu:
Lấy 50% tổng lượng bột đem nhào trộn với 60- 65% tổng lượng nước và 100% tổng lượng men quy định trong bột nhào. Độ ẩm 47- 50%, nhiệt độ 28- 30 oC. Lượng men cần dùng (tính % so với bột) như sau:
- Nấm men ép 0.5- 1%
- Nấm men khô 0.15- 0.35%
- Dịch men lỏng 20- 25%
Mục đích: tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình lên men bột nhào.
• Chuẩn bị bột bạt:
Cho lượng bột còn lại vào khối bột đầu, nước, muối và các chất khác theo thực đơn quy định (đường, chất béo,…). Độ ẩm phụ thuộc vào quy định độ ẩm ruột của từng loại bánh. Nhiệt độ lúc đầu vào khoảng 29- 30 oC. Thời gian 1- 1h45. Trong thời gian lên men, bột nhào được đảo một hai lần. Đảo bột mỳ có ý nghĩa quan trọng, nhất là đối với bột nhào được chuẩn bị từ bột mỳ “mạnh”.
Phần lớn các nhà máy bánh mỳ trong nước và trên thế giới đều dùng phương pháp dùng bột đầu, ưu điểm của phương pháp này:
- Chất lượng bánh cao, bánh có mùi vị thơm ngon, nở to và xốp đều, lỗ hổng nhỏ.
- Dễ dàng áp dụng đối với nhiều loại bột.
- Độ acid cao của bột đầu có tác dụng ức chế hoạt động của men thủy phân protit.
- Giảm chi phí về nấm men.
Lên men bột nhào:
Muốn có bánh mỳ ngon, xốp, ruột nở thì phải làm nở bột nhào. Bột nhào được làm nở bằng các phương pháp khác nhau: vật lý, hóa học và hóa sinh học.
Phương pháp sinh hóa học được coi là phương pháp chủ yếu để làm nở bột nhào. Đó là sự lên men rượu. Trong quá trình hoạt hóa các nấm men đã chuyển đường và tinh bột trong bột mỳ qua nhiều giai đoạn biến đổi trung gian và cuối cùng tạo thành khí cacbonic. Chính khí cacbonic này làm nở bột nhào. Một phần nhỏ khí cacbonic được tạo thành do sự lên men lactic.
Phương pháp này được sử dụng rộng rãi vì không chỉ làm cho bột nở tốt mà còn làm cho bánh có mùi vị thơm ngon và dễ tiêu hóa. Vì trong quá trình lên men, ngoài việc chuyển đổi các hợp chất có cấu trúc dưới dạng phức tạp thành đơn giản, thì nhiều sản phẩm phụ được tạo thành như: acid lactic, rượu etylic, acid acetic, các este và andehit, những chất này làm cho bánh có mùi vị thơm ngon.
Tạo hình bán thành phẩm:
Gồm các khâu chủ yếu sau:
- Chia bột nhào thành từng cục
- Vê cục bột nhào
- Lên men ổn định
- Tạo hình cục bột
- Lên men kết thúc
Ngoài những khâu nói trên, tùy theo dạng của từng loại thành phẩm mà còn phải qua một vài khâu khác, như là bôi mỡ, trứng, bơ, nạp khuôn, khía bánh.
• Chia bột thành từng cục: bột nhào được chia nhỏ ra thành cục theo trọng lượng khác nhau tùy loại bánh, sai số khi chia bánh là 1- 1.5 %.
• Vê cục bột nhào: sau khi chia, cục bột phải được lăn vê ngay. Lăn vê có tác dụng làm cho cấu trúc bột nhào trở nên tốt hơn và ruột bánh xốp đều hơn. Thường lăn vê cục bột theo dạng hình cầu, nghĩa là dạng hình học đơn giản nhất và sau đó dễ dàng chuyển thành các dạng khác nhau tùy theo yêu cầu của bánh mỳ thành phẩm.
• Lên men ổn định: thời gian khoảng 5- 8 phút. Khoảng thời gian này cục bột khôi phục lại cấu trúc do lăn vê, thể tích của bột nhào tăng lên. Thực tế khoảng thời gian này không có ý nghĩa.
• Tạo hình cục bột nhào: tạo hình theo hình dáng yêu cầu của thành phẩm. hình dạng bánh mỳ thường là: hình dẹt, dạng trụ tròn hai đầu, dạng hộp. Nếu sản xuất bánh mỳ dạng hộp thì trước khi cho bột nhào vào khuôn phải bôi dầu để chống dính.
• Lên men kết thúc: là khâu quan trọng trong sản xuất bánh mỳ, nó ảnh hưởng rõ rệt đến chất lượng thành phẩm. Khí CO2 tiếp tục tạo thành, thể tích cục bột tăng lên và thời gian lên men phụ thuộc vào: khối lượng cục bột nhào, thành phần bột nhào, tính chất nướng bánh của bột mỳ, yêu cầu của lên men kết thúc và một số các yếu tố khác.
Nướng bánh:
Bánh mỳ thành phẩm khác hẳn cục bột nhào ở hình dáng bên ngoài, các đặc tính vật lý và mùi vị. Trong khi nướng, dưới tác dụng của nhiệt, cùng một lúc trong cục bột nhào xảy ra hàng loạt biến đổi về mặt hóa học, hóa sinh học và trạng thái keo.
Tùy thuộc vào từng loại bánh sẽ có chế độ nướng khác nhau.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu và thực tế sản xuất, người ta đưa ra chế độ nướng bánh gồm 3 giai đoạn:
• Giai đoạn I: (vùng nướng ẩm)
Bánh được đưa vào lò nướng ở nhiệt độ 100- 120oC, với độ ẩm khoảng 60- 70%. Thời gian nướng bánh trong vùng này khoảng 2- 4 phút. Ở vùng này, thể tích bánh được tăng lên, trên mặt bánh tạo thành hồ tinh bột và vỏ bánh nhẵn.
• Giai đoạn II: (vùng khô)
Nhiệt độ nướng khoảng 280- 300oC. Ở vùng này bánh được làm nóng rất nhanh và kết thúc quá trình tăng thể tích của giai đoạn I. Mặt ngoài vỏ bánh tạo thành vỏ cứng và có màu. Nhiệt độ trung tâm ruột bánh lên tới 50- 60oC.
• Giai đoạn III: (nướng lại)
Nhiệt độ khoảng 180- 190oC. nhiệt độ trung tâm của ruột bánh cuối giai đoạn này vào khoảng 95- 97oC
v Các quá trình vi sinh, hóa sinh và keo xảy ra trong bột nhào khi nướng:
Trong những phút đầu tiên của quá trình nướng, hoạt động của nấm men và vi khuẩn lên men acid được tăng cường, còn sau đó thì giảm dần và đình chỉ hẳn. Quá trình lên men rượu đạt cực đại khi bột nhào được làm nóng đến 35oC, khi nhiệt độ tăng lên đến 45oC thì sự tạo thành bọt khí giảm xuống rõ rệt, còn khi nhiệt độ đạt đến 50oC thì thực tế các quá trình vi sinh đều ngừng hẳn.
Sự lên men lactic cũng được đẩy mạnh trong thời gian đầu và sau đó giảm xuống, lúc đầu hoạt động của vi sinh vật bị ức chế, còn sau khi nhiệt độ đạt 70oC thì chúng bị tiêu diệt.
Do hoạt động của vi sinh vật mà trong những phút đầu tiên của quá trình nướng bánh, hàm lượng rượu, CO2 và acid tăng lên đôi chút, làm cho thể tích của bánh tăng lên, mùi vị bánh được cải thiện.
Trong thời gian nướng, quá trình thủy phân tinh bột bằng men (fecmen) và acid (không đáng kể) xảy ra trong cục bột nhào. Nhiệt độ thích hợp cho hoạt động của p-amilaza là 62- 64oC (ngừng 82-84 oC), x- amilaza là 71-75oC (ngừng 97-98 oC).
Trong quá trình nướng bánh gần 70 hợp chất gây hương vị được tạo thành, phần lớn các chất này thuộc nhóm cacbonyl (andehyt và xeton), các este phức tạp, rượu và các acid hữu cơ.
Cường độ màu của vỏ bánh phụ thuộc vào hàm lượng các acid amin và các đường khử trong bột nhào, nhiệt độ buồng nướng, độ xốp thưa dày của bánh trong sàn nướng, thời gian nướng.
Các quá trình keo xảy ra chủ yếu trong khối bột nhào khi nướng là sự hồ hóa tinh bột và sự đông tụ protit. Sự thay đổi này diễn ra khi mỗi lớp cục bột nhào nóng đến nhiệt độ 55- 60oC. Thời gian nướng bánh tinh bột chỉ được hồ hóa một phần.
Quá trình biến tính của protit do tác dụng của nhiệt xảy ra ở nhiệt độ 50- 70oC. Khi bị đông tụ, protit nhả nước và chặt lại, mất tính đàn hồi. Protit bị biến tính tạo thành bộ khung cho bánh mỳ, cố định hình dáng của bánh.
Các đặc điểm cần chú ý
Sự cố Nguyên nhân Cách khắc phục
Bánh khô cứng bề mặt, chất lượng và khối lượng không đạt. Do không phun ẩm trong 5 phút đầu của giai đoạn nướng. Đảm bảo độ ẩm phía ngoài mặt bánh trong giai đoạn đầu của quá trình nướng.
Bột quá khô sau quá trình nhào bột. Lượng nước quá ít Tính cân bằng vật liệu chính xác
Thiếu sự đồng đều về khối lượng thành phẩm Thiếu kinh nghiệm Hiệu chỉnh thiếu sót
Bánh sau giai đoạn lên men chưa đạt yêu cầu về lên men Do thiết bị lên men, cách tiến hành, giống lên men. Như trên
Màu sắc chưa đồng đều Do thành phần nguyên liệu, nhiệt độ và thời gian nướng. Canh thời gian nướng và điều chỉnh thành phần cân đối.
Nướng quá mức Do nhiệt độ cao và thời gian nướng Khắc phục 2 yếu tố trên
3. Kết quả và nhận xét:
Bánh thu được chưa đồng đều về khối lượng và chất lượng (hương vị, mùi vị, độ xốp và mềm dẻo của bánh).
Màu sắc: có màu vàng nhạt, chưa đồng đều trên bề mặt.
Hình dáng bên ngoài: bánh sau khi đã ra khỏi lò nướng thì có kích thước nhỏ, và chưa đồng đều, bề mặt bánh hơi gồ gề, không được phẳng, nhẵn và bóng.
Cảm quan: Bánh có một độ giòn, nhưng vẫn chưa đạt được yêu cầu của sản phẩm. Lớp vỏ bên ngoài có độ giòn, cứng và dày hơn. Phần ruột hơi đặc và có mùi thơm nhẹ, dễ chịu.
1- Cho mình hỏi, việc phun ẩm sau 5 phút đầu mang ý nghĩa j? theo mình nghĩ thì tạo môi trường cho việc hình thành màu sắc của vỏ + vỏ khô mà ruột bánh chưa chín, dùng nước là tác nhân truyền nhiệt vào trong..Không biết phải vậy k?
2- Vì sao nếu ta lên men quá mức, bánh sẽ xẹp trong quá trình nướng?
3- Trong sx bánh mì, hầu như ít sử dụng bột mì số cao, trong khi bánh mi là loại lương thực đứng đầu thế giới hơn cả gạo và mì sợi ?
4- Đánh giá khả năng bám dính của bột, có phải ta dựa vào khả năng hút nước của gluten ?
5- Có thể nói, sữa có ảnh hưởng đến sx bánh mì ( đề cập ở đây là sữa béo và ít béo). Tại sao như vậy?
6- Gluten của bột yếu và bột mạnh khác nhau ở điểm nào?
7- Tại sao sử dụng monosaccharide sẽ làm mềm bánh, vỏ mỏng và đặc ruột?
8- Khi lượng đường sử dụng quá mức qui định sẽ ảnh hường đến công đoạn nào?
9- Sử dụng quá nhiều nấm men cũng sẽ ảnh hưởng đến giai đạon nào? trong sx bánh mì
Học và phải hiểu được các biến đổi, bản chất vấn đề mới là học Công nghệ thực phẩm.
bạn đọc sách lương thực thực phẩm tập 2 của ĐHBK TP HCM. cuốn đó giải thích tất cả
những câu trong sách không có thì đọc kĩ lại cung luận ra được những câu bạn đã hỏi
gợi ý nhe:
1. liên quan quá trình hồ hóa tinh bột, quá trình chuyển ẩm và truyền nhiệt vào tâm banh
2. khung gluten
3.không hiểu hết câu hỏi.but nếu tại sao không dùng bột mì số cao để làm bánh thì
cân nhắc giữa khung gluten, yêu cầu chất lượng bánh, dinh dưỡng của bột mì hạng thấp và hạng cao ( tìm hiểu và phân biệt bột mì số cao và số thấp)
4.phải nhưng chưa đủ
5.có ảnh hưởng, lên men và khung cũng như cấu trúc của bánh
6. ????? sao không thử định nghĩa thế nào là bột mạnh/bột yếu=> bạn sẽ có câu trả lời
7. liên quan đến tính chất phân cực (giữ nước, giữ béo)
8.lên men, tao hình và tiếp theo là nướng
9.trả lời được mi câu trên => câu này bạn chẳng cần phải suy nghĩ
Trong cuộc sống hiện nay , chúng ta đâ rất quen với việc sử dụng bánh mì làm thức ăn hàng ngày. Trên thị trường có rất nhiều loại bánh mì khác nhau, nhưng trong khuôn khổ bài này chúng tôi chỉ nói đến bánh mì thông thường là bánh mì trắng
-Bánh mì trắng : làm từ lúa mạch vàng và bột mì thông thường
-Bánh mì đen : làm từ bột thô của lúa mạch đen .
Bành mì đen ít xuất hiện trên thị trường Việt Nam do mùi vị và màu sắc lạ hơn so với bành mì thông thường . Bánh mì đem được sử dụng chủ yếu ở nước Nga và các nước Đông Âu.
Các thành phần hoá học của bột mì:
Thành phần hoá học của bột mì (tính theo %KL) và nhiệt lượng (cal/100g)
Glucid: chiếm tới 70 – 80% chất khô. Trong đó:
Đường : 0,6 – 1,8%
Dextrin : 1 – 5%
Tinh bột : 80%
Pentozan :1,2 – 3,5%
Xenlulose : 0,1 – 2,3%
Hemixenlulose :2 – 8%
Glucid ảnh hưởng tới chất lượng bánh. Đường cần thiết cho quá trình lên men ở giai đoạn đầu khi mà bản thân amilase của nấm men chưa kịp thuỷ phân tinh bột thành đường maltose.
Tinh bột khi nướng bánh bị hồ hoá một phần và hút nước, lượng nước này do protein bị biến tính ở nhiệt độ cao sinh ra, vì vậy ruột bánh khô và đàn hồi.
Dextrin và pentozan có ảnh hưởng xấu tới chất lượng bánh vì dextrin không hút nước nên nếu nhiều dextrin ruột bánh ướt và ít đàn hồi, còn pentozan dễ keo hoá làm tăng độ nhớt và độ dính của bột nhào.
Cellulose và hemicellulose cơ thể người không tiêu hoá được nên trong bột càng ít càng tốt, hàm lượng hai chất này trong bột mì hảo hạng và loại I ít hơn trong loại II và loại thô.
Protid: chiếm khoảng 8 – 25%.
Cấu trúc phân tử protid có ảnh hưởng tới chất lượng gluten, chất lượng của gluten ảnh hưởng quyết định tới chất lượng của bánh. Nếu tỷ lệ mối liên kết disulfua trội hơn nghĩa là protid có cấu trúc bậc ba và bậc bốn nhiều hơn thì gluten của bột chặt hơn , sức căng lớn hơn, chất lượng bánh tốt hơn.
Protid của bột mì chủ yếu là dạng đơn giản:protein. Protein của bột mì gồm cả bốn nhóm: albumin, globulin, gliadin, glutenin. Nhưng hai nhóm sau là chủ yếu, chiếm tới 70 – 80%. Chính hai nhóm này khi nhào với nước tạo thành mạng phân bố đều trong khối bột nhào. Mạng này vừa dai vừa đàn hồi, có tác dụng giữ khí khi khối bột nhào nở và được gọi là gluten.
Hàm lượng gluten ướt trong bột mì khoảng 15 – 35% tuỳ thuộc vào hàm lượng protein của bột. Chất lượng của gluten được đánh giá bằng các chỉ số vật lý như: màu sắc, độ đàn hồi, độ dai và độ dãn. Bột có gluten chất lượng cao thì đàn hồi tốt, độ dai cao và độ dãn trung bình, bánh sẽ nở và ngon.
Trường hợp gluten yếu nghĩa là độ dãn lớn, độ dai thấp, ít đàn hồi thì bột nhào dinh, bánh ít nở và bị bè ra.
Để tăng chất lượng gluten khi nhào bột có thể bổ sung các chất oxi hoá: acid ascorbic, kali bromat, peoxit…., ngược lại những chất khử sẽ làm giảm chất lượng gluten.
Lipid : khoảng 2 – 3%. Trong đó ¾ là chất béo trung tính, còn lại là phosphatid, sterin, sắc tố và sinh tố tan trong chất béo. Trong bảo quản, chất béo dễ bị phân huỷ, giải phóng acid béo tự do, ảnh hưởng tới độ acid và vị của bột, đồng thời cũng ảnh hưởng tới gluten.
Trong bột mì có khoảng 0,4 – 0,7 % phosphatit thuộc nhóm lecithin. Lecithin là chất béo háo nước, có hoạt tính bề mặt cao, nhũ hoá tốt nên có tác dụng làm tăng chất lượng bánh
Hệ enzyme trong bột mì:
Enzyme trong bột có đầy đủ các hệ trong hạt mì, tuy nhiên trong sản xuất cần đặc biệt lưu ý protease và amilase.
Protease phân giải protein cấu trúc bậc ba, do đó gluten bị vụn nát làm giảm chất lượng bột nhào. Protease bột mì có hoạt độ mạnh ở 45 – 470C và pH = 4,5 – 5,6. Khi bổ sung chất khử thì hoạt độ của protease tăng nhưng với chất oxy hoá và muối ăn thì bị kìm hãm.
Amylase thuỷ phân tinh bột giúp cho bột nhào lên men nhanh và tăng chất lượng bánh vì lượng đường trong bột không đủ cho quá trình lên men. Tác dụng tích cực này chỉ đối với beta-amylase vì nó thuỷ phân tinh bột thành maltose, còn alfa-amylase thuỷ phân tinh bột thành dextrin mà dextrin thì liên kết với nước kém làm cho ruột bánh bị ướt, do đó làm giảm chất lượng bánh.
Các chỉ tiêu cảm quan dùng để đánh giá chất lượng bột sản xuất bánh mì:
Sau đây l quy trình sản xuất bánh mì tại một cơ sở ở Tp. HCM:
Định lượng nguyên liệu:
Để đạt tỉ lệ thích hợp giữa các thành phần cho qui trình sản xuất bánh mì.
Tỷ lệ phối trộn : 8 kg bột + 3 lít nước + 189 g nấm men + 80 g muối + 16 viên vitamine C + 16 quả trứng.
Nhào bột lần 1:
- Cho bột, muối, nước như trên nhào trong 5 phút bằng máy nhào để tạo điều kiện cho khối bột nở, thành một khối đồng nhất.
- Protide của bột mì chủ yếu là dạng đơn giản gọi là protein. Protein của bột mì gồm cả 4 nhóm: albumin, globulin, gliadin, và glutenin. Nhưng 2 nhóm sau là chủ yếu, chiếm tới 70 - 80%.Chính hai nhóm này khi nhào với nước tạo thành mạng phân bố đều trong khối bột nhào. Mạng này vừa dai, vừa đàn hồi, có tác dụng giữ khí làm khối bột nhào nở và được gọi là gluten. Bột có gluten có chất lượng cao thì đàn hồi tốt, độ dai cao, độ dãn trung bình bánh sẽ nở và ngon. Trường hợp gluten yếu nghĩa là độ dãn lớn, độ dai thấp, ít đàn hồi thì bột nhào dính, bánh ít nở và bè ra.
- Muối : để tạo vị cho sản phẩm. Ngoài ra, muối còn có tác dụng kìm hãm hoạt độ của E.protease - là enzyme có trong bột mì. Enzyme này phân giải protein bậc 3 do đó gluten bị vụn nát, làm giảm chất lượng bột nhào.
Nhào bột lần 2:
- Nấm men: cho vào khối bột để nấm men phát triển sinh khối.
- Vit C : để tăng chất lượng gluten khi nhào bột, vì vit C có tác dụng kìm hãm E. protease. Ngoài ra, có thể sử dụng một số chất oxy hóa khác: kali bromat, peoxit,...
- Phụ gia: tạo ẩm cho bề mặt bánh khi nướng. Phụ gia có thể là trứng.
Tạo hình bánh:
- Tạo hình bánh gồm các bước: chia khối bột nhào thành từng mẫu, vê mẫu bột nhào, lên men ổn định sơ bộ, tạo hình và lên men ổn định kết thúc.
+ Khối bột nhào được chia thành từng mẫu và có khối lượng theo từng loại bánh.
+ Sau khi chia cấu trúc của mẫu bột nhào bị phá vỡ, phải qua quá trình vê để ổn định lại cấu trúc. Nếu vê tốt, bánh sẽ nở đều và giữ được hình dạng theo yêu cầu. Tốt nhất là vê thành hình cầu sau đó lăn thành hình trụ.
+ Sau khi chia và vê tròn xong, cục bột được để yên khoảng 5 phút nhằm phục hồi lại khung gluten và tính chất vật lí của bột nhào. Thời gian này gọi là thời gian lên men ổn định sơ bộ. Trường hợp sản xuất cơ giới hoặc thủ công thì không cần thời gian này, vì thực tế do thao tác chậm nên đã đủ thời gian để phục hồi tính chất của khốt bột.
+ Sau khi lên men ổn định sơ bộ, khối bột được chuyển qua giai đoạn tạo hình.
+ Sau đó chuyển qua giai đoạn lên men ổn định kết thúc. Lên men ổn định kết thúc là bước kĩ thuật quan trọng ảnh hưởng quyết định tới chất lượng bánh, vì nhờ giai đoạn này mà bánh nở to và có hình dáng thể tích theo yêu cầu. Trong thời gian này quá trình lên men tiếp tục sinh ra khí CO2bù lại lượng CO2 đã mất đi khi chia và vê.
* Quá trình sinh khí CO2 gồm 2 giai đoạn:
Giai đoạn đầu:
Khi E.amilase của nấm men chưa kịp phân hủy tinh bột thành đường maltose, nấm men sẽ chuyển đường thành cồn và CO2 theo phương trình:
C6 H12O6 Chuyển hóa thành 2 C2H5 OH + CO2
Do đó khả năng sinh đường và tạo khí của bột sẽ quyết định chất lượng bánh. Chính CO2 là tác nhân làm bột nở. CO2 được tạo thành sẽ bị giữ lại trong các mạng gluten.
Giai đoạn sau:
Khi nấm men tổng hợp được E.amilase theo cơ chế cảm ứng, E. sẽ thủy phân tinh bột thành đường và tiếp tục xảy ra quá trình chuyển đường thành cồn và CO2 .
E.amilase thủy phân tinh bột giúp bột nhào lên men nhanh và tăng chất lượng bánh vì lượng đường có trong tinh bột không đủ cho quá trình lên men. Tác dụng tích cực này chỉ đối với beta-amilase vì nó phân hủy tinh bột thành maltose còn alfa-amilase phân hủy tinh bột thành dextrin mà dextrin liên kết yếu với nước làm cho ruột bánh bị ướt, do đó làm giảm chất lượng bánh. Vì vậy, một trong những yêu cầu chất lượng của nấm men trong sản xuất bánh mì là hoạt lực maltose < 70 phút ( giá trị này biểu thị thời gian cần để giải phóng 10 ml CO2 khi lên men 20 ml dung dịch 5% maltose với hàm lượng nấm men 2,5%)
Nhiệt độ lên men ổn định kết thúc khoảng 35-40°C và độ ẩm của không khí
75-85%. Nếu nhiệt độ thấp thì thời gian lên men sẽ kéo dài và nếu độ ẩm không khí thấp thì vỏ cục bột bị khô, khi nướng vỏ bánh bị nứt. Nhưng nếu độ ẩm quá cao thì cục bột sẽ ướt và dính.
Thời gian lên men ổn định kết thúc khoảng 20-120ph tùy vào khối lượng cục bột, công thức sản xuất, tính chất nướng bánh của bột, điều kiện lên men và một số yếu tố khác. Nếu cục bột nhỏ, độ ẩm thấp, công thức có nhiều đường và chất béo thì thời gian lên men kéo dài. Trường hợp bột xấu, độ ẩm không khí của phòng lên men cao, thì thời gian lên men ngắn.
Sau 50-60ph phải đảo lại bột bạt. Bột tốt thì đảo 2-3 lần.
* Chú ý: lần cuối cùng chỉ được đảo trước khi đưa vào nướng từ 20-30ph.
Nướng:
Nướng là giai đoạn cuối cùng và cũng là khâu quan trọng trong sản xuất bánh mì. Khi nướng, dưới tác dụng của nhiệt trong cục bột cùng lúc xảy ra các quá trình: lí - nhiệt, hóa - sinh, và keo hóa. Chế độ nướng bánh đặc trưng bởi 3 thông số chính: độ ẩm tương đối của hỗn hợp không khí và hơi trong buồng nướng, nhiệt độ của các vùng trong buồng nướng và thời gian nướng.
- Độ ẩm tương đối của không khí trong buồng nướng có ảnh hưởng nhiều đến chất lượng bánh. Mục đích của khâu làm ẩm là tạo cho hơi nước ngưng tụ trên bề mặt bánh khi bánh vừa được đưa vào lò. Nếu đảm bảo đủ ẩm thì tinh bột dễ hồ hóa đồng thời hòa tan dextrin làm bề mặt bánh phẳng và bóng láng. Mặt khác, nhờ có ẩm mà mặt bánh dai, chậm khô do đó giữ được khí và hơi làm cho bánh nở to hơn. Ngoài ra, làm ẩm còn có tác dụng đốt nóng bánh nhanh hơn, vỏ bánh mỏng không bị cháy, ruột bánh chín đều và nhanh do đó rút ngắn được thời gian nướng. Nếu nướng bánh trong môi trường không đủ ẩm thì bánh ít nở, vỏ bánh nứt và không vàng đều, có chỗ còn trắng, có chỗ cháy. Đặc biệt vỏ bánh dày và cứng ngăn cản nhiệt xâm nhập vào ruột bánh.
- Nếu bánh có bôi trứng thì không cần làm ẩm vì bề mặt bánh đã đủ ẩm.
- Nhiệt độ và thời gian nướng trước hết phụ thuộc vào khối lượng mỗi bánh. Bánh nhỏ thì nhiệt độ buồng nướng cao và thời gian nướng ngắn. Bánh to phải hạ nhiệt độ xuống, và kéo dài thời gian nướng, nếu nhiệt độ cao thì vỏ bánh cháy mà ruột bánh còn sống.
- Chất lượng bột cũng liên quan đến nhiệt độ và thời gian nướng. Nếu bột với gluten yếu cần nướng ở nhiệt độ cao để protit biến tính nhanh giữ nguyên khung và không bị xẹp.
- Trong trường hợp lên men ổn định kết thúc chưa đạt thì nên giảm nhiệt độ nướng và kéo dài thời gian để quá trình lên men tiếp tục lâu hơn tạo điều kiện cho bánh nở to.
Bánh có khối lượng 100g ,nướng trong 12-15ph, bánh có khối lượng 200g thì nướng trong 15-18ph, nhiệt độ lò nướng từ 220-240° C